NỖI HÀM OAN
CỦA CUỐN TỰ ĐIỂN KHANG HY QUA THÁNH HÚY CỦA ĐỨC GIA LONG
1. Vửa qua, trong Hội thảo khoa học về “Kinh đô Huế thế kỷ XIX” do Hội
Khoa học Lịch sử TT Huế tổ chức ngày 10.6.2020, Ts Võ Vinh Quang có bài tham
luận về Thánh húy của vua Gia Long và xác định lại tên húy của ngài là ÁNH.
Cách đây hơn 10 năm, nhà nghiên cứu Võ Hương An cũng có một bài viết
tương tự. Bằng các chứng cứ về kiêng húy, ông đã kết luận Ngài không thể có tên
húy là Anh.
Trước đây nữa, hầu như tất cả các sử gia, nhà nghiên cứu và ngay cả Tôn
nhơn phủ của triều Nguyễn đều viết Đức Gia Long húy là Nguyễn Phúc Ánh.
Tuy nhiên, Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả (gọi tắt là Thế phả) -- bộ tộc phả mới
nhất của họ Nguyễn Phúc – lại ghi húy của vua Gia Long là ANH.
Sách
viết, “Thế Tổ Cao Hoàng Đế húy Nguyễn Phúc Anh ” (tr.215) và
giải thích ở chú thích (2) rằng, “Đức Thế Tổ [Gia Long] lúc
nhỏ có tên Chủng 種 sau đức Hưng Tổ [Nguyễn Phúc Côn] chọn
một chữ trong bộ 日 Nhật để đặt tên cho ngài, gồm
bên trái là chữ 日 Nhật bên phải là
chữ 英 Anh (theo Sử Quốc
Triều Chính Biên Toát Yếu), bản dịch Đại Nam Thực Lục Chính Biên của Viện Sử
Học Hà Nội thì chép bên trái chữ 日 Nhật bên phải chữ
Ương 央. Nguyên hai chữ trên đều có
cùng nghĩa, cùng âm. Theo phiên thiết ở
Khang Hy Tự điển đọc là Ánh NHƯNG ÂM ANH nên ngày trước đọc là Anh. Vì thế trong dòng họ đều kiêng và đọc trại ra chữ Anh thành Yên, anh em
thì đọc thành yên em.” (tr.215)
Từ nhận định này “Theo phiên thiết ở Khang Hy Tự điển đọc là Ánh NHƯNG ÂM ANH nên ngày trước đọc là Anh” chúng tôi đã xem lại Khang Hy
tự điển để tìm hiểu có thật vậy hay không.
2. Khang Hy tự điển (KHTĐ) là một bộ tự điển rất đầy đủ cho người nghiên
cứu tiếng Hán. Để tránh đọc nhầm một chữ nào đó trong văn bản cổ, chúng tôi
cũng thường dựa chủ yếu vào phiên thiết của tự điển này.
2.1 Chúng tôi đồng ý với Thế phả rằng tên ngài viết là 映.Đây cũng chính là từ được viết trên
ảnh thần chủ của
Ngài hiện đang thờ ở Thế miếu mà
Ts Quang đã cung cấp. (H.1).
H.1 Thần chủ thờ vua Thế tổ (Ảnh: Võ
Vinh Quang)
Vấn đề được đặt ra là KHTĐ giải thích
cách đọc thế nào.
Xem KHTĐ (H.2) chúng tôi thấy như
sau:
Phiên âm:
Quảng vận: Ư kính thiết, Tập vân, Vận hội: Ư khánh thiết, Chính vận: Ư mệnh thiết,
tịnh ANH KHỨ THANH. Thuyết văn: Minh dã, Ẩn dã (hết trích)
Dịch nghĩa:
theo Quảng vận đọc là ÍNH, theo Tập vận và Vận hội đọc là ÁNH, theo Chính vận đọc
là ỆNH, còn đọc là ANH KHỨ THANH. Theo Thuyết văn, nghĩa của chữ Ánh là Chiếu
sáng, là Che giấu (hết trích)
Theo phép phiên thiết thì chỉ chấp nhận âm ÍNH, còn không chấp nhận âm ỆNH vì khứ thanh bắt đầu bằng nguyên âm
không có thanh điệu trầm phù (xem phần sau). Còn lại chữ đó trong kho từ Hán Việt
đọc là âm ÁNH và âm ANH KHỨ THANH.
Âm ÁNH thì Thế phả đã công nhận rồi,
nhưng lại bảo là âm ANH. Sao lại thế?
Xin thưa là để đọc một chữ theo phiên
thiết có quy tắt chặt chẽ. Sau khi tìm ra phụ âm đầu và vần của chữ đó nhờ vào
phiên thiết, chúng ta cần xác định thanh điệu của nó. Thanh điệu của từ Hán Việt
được chia làm 4 bậc: Bình, Thượng, Khứ, Nhập và mỗi bậc lại chia làm 2 loại phù
trầm. (H.3)
Bình 平
|
Thượng 上
|
Khứ
去
|
Nhập 入
|
||||
Phù 浮
|
Trầm 沉
|
Phù 浮
|
Trầm 沉
|
Phù 浮
|
Trầm 沉
|
Phù 浮
|
Trầm 沉
|
Ba 巴
|
Bà 婆
|
Đảng 黨
|
Đãng 荡
|
Bái 拜
|
Bại 敗
|
Thấp 濕
|
Thập 十
|
Đa 多
|
Đà 陀
|
Hải 海
|
Hãi 駭
|
Báo 報
|
Bạo 暴
|
Thất 七
|
Thật 實
|
Gia 加
|
Già 伽
|
Hổ 虎
|
Hỗ 互
|
Tứ 四
|
Tự 寺
|
Bách 百
|
Bạch 白
|
H.3. Bốn thanh điệu của âm Hán Việt
(trích Wikipedia).
Một từ được xác định là khứ thanh thì
từ đó có dấu sắc (phù khứ) hoặc dấu nặng (trầm khứ). Suy ra ANH KHỨ THANH là âm
Anh nhưng thanh điệu thuộc khứ thanh, tức đọc là Ánh hoặc Ạnh. Ở đây, phiên thiết
lại qui định rằng nếu một từ thuộc khứ thanh mà bắt đầu là một nguyên âm thì
không có thanh điệu trầm khứ, tức không mang dấu nặng, Vậy từ này âm là ÁNH như đã
xác định bằng phiên thiết là “Ư khánh thiết” ở trên. Có vậy, chữ mới hợp với
nghĩa là “Chiếu sáng”.
2.2 Còn Quốc triều Chính
Biên Toát Yếu ghi tên húy của ngài Cao
tổ là 暎 thì sao?
Theo KHTĐ (H. 4) chúng tôi thấy như sau:
Phiên âm: Tập vận: Ư
khánh thiết, Chính vận: Ư mệnh thiết, tịnh dữ Ánh đồng (hết trích)
Dịch nghĩa: Theo Tập vận
đọc là ÁNH, theo Chính vận đọc là ỆNH, cũng đọc như là 映 (Ánh)
Vậy chữ này cũng đọc là Ánh, như trên Thế phả đã nói đọc cùng âm và có cùng nghĩa.
Vậy chữ này cũng đọc là Ánh, như trên Thế phả đã nói đọc cùng âm và có cùng nghĩa.
3. Nói tóm lại, dù tra bằng từ điển
nào ta cũng chỉ có một âm ÁNH. Khang Hy tự điển KHÔNG HỀ ghi âm ANH. Chẳng qua
là người nghiên cứu đã đọc không kỹ, thành thử đọc nhầm qua âm ANH. Đừng đổ lỗi cho KHTĐ. Đừng để
KHTĐ chịu nỗi oan này.
Tháng 7.2020 Nguyễn Phúc Vĩnh Ba.