Than ôi!
Đời chính trị lông hồng gieo núi Thái,
ngẩng đầu lên sấm sét vẫn chưa nguôi;
Việc văn chương một tấc để ngàn thu,
ngoảnh mặt lại đá vàng sao khỏi thẹn.
Muốn gào to hồn phách anh linh;
Nhớ xưa tiên sinh:
Chào đời khi gió nổi Đông du;
Mài thép dưới trăng mờ Thế chiến.
Nghiệp truyền gia giáo, thuở nhập môn
từng đất Bắc vui quê;
Vai nặng quốc thù, bước du học lại trời
Tây vượt biển.
Rèn chí đấu tranh;
Đua tài hùng biện.
Chí khí ngày kia một kiên cường;
Tài năng ấy càng thêm phát triển.
Bao năm xuất ngoại, đã lưu tâm tại chỗ,
từng mưu lừa chước dối thực dân;
Một sớm hồi hương, lại ngứa mắt trông
ra, cả tấn kịch trò hề phong kiến.
Thi văn đoàn Tự lực thế tất phải xung
phong;
Mà tuần báo Ngày nay phải kịp thời xuất
hiện.
Vì dân vì nước đẩy mạnh phong trào;
Có chí có gan thiếu gì phương tiện.
Nào hia với hốt, phá cho tan trò hoạn lộ
thanh vân;
Nay cấp mai bằng, cười đến tỉnh lũ thư
sinh bạch diện.
Từ đó tiên sinh:
Lấy văn đàn làm nơi bái tướng, cờ phất
dọc ngang;
Giữa chính trường cao giọng lập ngôn,
bút mài sắc bén.
Làm sống lại tinh thần Yên Bái, nửa bước
không lùi;
Cuốn ào lên tâm huyết Quốc dân, một dòng
thẳng tiến.
Bôn ba nơi hải ngoại, Hàng Châu, Quỳ
Châu, Liễu Châu;
Đối lập mọi cường quyền, chống Pháp,
chống Cộng, chống Diệm.
Ai hay:
Gió gọi chưa lên;
Giờ nghe đã điểm.
Giữa cao trào
Phật giáo, để hoằng dương chính pháp, lửa từ bi vừa thượng toạ thiêu thân;
Nêu đại nghĩa
Nho gia, nhằm cảnh cáo độc tài, chén tân khổ cũng tiên sinh tuyên chiến.
Sét ngang tai, bạo lực thấy ghê hồn:
Trời cúi mặt, không gian chờ nảy điện.
Lửa-Cách-Mạng
dâng về thư tuyệt mạng, thôi rồi tay lãnh tụ! Khắp các giới: thức giả, bình
dân, sinh viên, đồng chí, cùng dạt dào tim vỡ máu sôi;
Người-Quay-Tơ
đành bỏ trống guồng tơ, đâu nữa mặt kinh luân? Cả bốn phương: Cà Mau, Thuận
Hoá, Bến Hải , Nam Quan, nghe giục giã sông dời
núi chuyển.
Nhưng đau đớn thay:
Phút hạ huyệt súng gươm vây kín, muôn
dòng châu đứt nối chưa tròn;
Buổi cầu siêu hương khói âm thầm, bao
tiếng khóc dở dang còn nghẹn.
Cho nên hôm nay:
Mừng quốc gia vừa khắc bạo trừ hung;
Đẹp hy vọng sẽ hà thanh hải yến.
Dân chúng thủ đô hướng về tiên sinh:
Lễ Truy điệu mở
đầu năm dương lịch, chạnh tưởng cồn dâu bãi bể, đốt hương lòng toả khắp mười
phương;
Vườn Tao Đàn
rung hết đợt âm giai, trông ra ngọn cỏ lá cây, hoà nước mắt vẩy quanh một chén.
Mong cảm tới tiên sinh;
Dám nề chi u hiển.
Hỡi ơi:
Tố Đoạn-tuyệt
thành hồ đoạn tịch, mộng dẫu chơi vơi nửa cuộc, sử còn thơm danh liệt sĩ Tường
Tam;
Phượng Nhất Linh
hề thiên nhất phương, lầu tuy ngơ ngác bên sông, gió vẫn nổi tiếng văn hào họ
Nguyễn.
(Sài Đô, 5-1-1964)
Vũ Hoàng Chương
Ghi chú:
1. Nguyễn Tường
Tam (1906 - 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh,
Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng du, Tân Việt, Đông Sơn (khi vẽ); và cũng là một chính
trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20.
Ông là người thành lập Tự Lực văn đoàn và là cây
bút chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Về sau,
ông còn là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của
Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc
dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong
Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.
Sau 1954, Nhất Linh vào sống ở Đà Lạt. Ngày
7.7,1963 ông uống thuốc độc tự tử để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ông
ra tòa xét xử về âm mưu đảo chánh bất thành.
2. Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976) là một
thi sĩ nổi tiếng từ những năm 40 của thế kỷ trước. Ông bỏ Sở hỏa xa đi học Cử
nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Phòng. Sau đó trở về Hà Nội
lập "Ban kịch Hà Nội" cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 đoàn
kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp
Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944.
Sau Cách mạng tháng Tám
1945, ông về Nam
Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn
quốc nổ ra, Vũ Hoàng Chương tản cư cùng gia đình về Thái Bình, làm nghề dạy
học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến ruồng bắt cả nhà, ông bỏ miền quê, hồi
cư về Hà Nội nơi dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề này cho đến 1975.
Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di
cư vào Nam ,
tiếp tục dạy học và sáng tác ở Sài Gòn. Năm 1959 ông đoạt "Giải Văn học
Nghệ thuật Toàn quốc" của Việt Nam Cộng hòa với tập thơ Hoa đăng.
Thời gian 1969 - 1973 Vũ Hoàng Chương là Chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam . Năm 1972
ông đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc lần thứ hai.
Ông còn được vinh danh là
"Thi bá" Việt Nam .
Bác khỏe chứ?
Trả lờiXóaTạm tạm thôi. Sk dạo này xuống quá. Cám ơn bác hỏi thăm.
XóaEm sang thăm anh và biết thêm về cuộc đời nhà văn Nhất Linh.
Trả lờiXóaChúc anh luôn vui khỏe ạ.
bài rất hay
Trả lờiXóa